Sonna koto-o yuu mon-ja arimasen (Con không nên nói điều như thế)

Nihongo Notes

  • Tác giả: Osamu Mizutani, Nobuko Mizutani
  • Chuyển ngữ: Yappa
  • Mục lục

Sonna koto-o yuu mon-ja arimasen
そんな ことを いう もんじゃ ありません
(Con không nên nói điều như thế)

Gần đây anh Lerner được mời đến dùng bữa tối tại gia đình Takada. Khi mọi người nói chuyện sau bữa tối, con trai anh Takada đã nói gì đó chỉ trích bố mình. Mẹ cậu ta liền bảo:
Kodomowa sonna kotoo yuu monja arimasen.
こどもは そんな ことを いう もんじゃ ありません。
(Nghĩa đen: Trẻ con không phải là thứ có thể nói điều như thế.)
Anh Lerner hiểu rằng chị ấy đang quở trách đứa con, nhưng không rõ tại sao chị lại dùng từ mono khi nói về con mình. Vì sao chị ấy không dùng từ hito (người) mà lại là mono (thứ).

*  *  *

Từ mono (thường được nói gọn thành mon trong hội thoại) được dùng theo nhiều cách khác nhau. Một trong các cách sử dụng đó là “đáng lẽ phải làm (hoặc phải là) điều gì”. Yuu mondesu có nghĩa là “Bạn đáng lẽ phải nói điều đó”, còn Yuu monja arimasen có nghĩa là “Bạn đáng lẽ không được nói điều đó”. Khi chị Tanaka nói Kodomowa sonna kotoo yuu monja arimasen, thì ý của chị ấy là một đứa trẻ không nên nói điều như thế.

Cách diễn đạt … mondesu hoặc … monoja arimasen thường được người lớn sử dụng để khiển trách người trẻ tuổi hơn. Một bà mẹ sẽ thường nói với con mình
Sonna hono yomu monja arimasen.
(Con không nên đọc loại sách như vậy.)
hay
Okyaku-sama-niwa aisatsu-suru mon desu.
(Con nên chào hỏi khách của chúng ta.)
Một giáo viên cấp ba có thể nói với học sinh
Gakusee-wa motto benkyoo-suru mono-da.
(Học sinh nên học hành chăm chỉ hơn.)
Thậm chỉ khi một người đã trưởng thành và bắt đầu đi làm, anh ta có thể vẫn bị khiển trách bởi người lớn tuổi hơn như sau
Konna yarikata-o suru mon-ja nai.
(Cậu không nên làm theo cách như thế này.)
Đôi khi bố mẹ già lại bị con cái nhắc nhở:
Toshiyori-wa muri-o suru mon-ja nai.
(Người có tuổi thì không nên làm việc quá sức.)

Vì cách diễn đạt này được dùng tùy theo cảm nhận của người nói về sự đúng mực, thế nên rất khó để đưa ra quy tắc chung về cách sử dụng của nó trong tiếng Nhật hiện đại, khi mà lối sống và các giá trị của cảm nhận con người đang thay đổi và trở nên đa dạng hơn.

Gomennasai (Tôi xin lỗi)

Nihongo Notes

  • Tác giả: Osamu Mizutani, Nobuko Mizutani
  • Chuyển ngữ: Yappa
  • Mục lục

Gomennasai
ごめんなさい
(Tôi xin lỗi)

Ở văn phòng anh Lerner làm việc, một buổi tiếp đón đã được tổ chức vào chiều qua để chào mừng một vị khách quan trọng. Anh Lerner được giao nhiệm vụ nói một bài phát biểu ngắn bằng tiếng Nhật. Vì mọi người đều trông rất nghiêm túc, nên anh Lerner khá là lo lắng và đọc nhầm tên của vị khách, anh nhanh chóng xin lỗi
Gomennasai.
ごめんなさい。
(Tôi xin lỗi.)
Rất nhiều người bật cười. Vì thế mà mọi người cũng bớt căng thẳng hơn, mặc dù anh Lerner thì cảm giác hơi mất tự tin về tiếng Nhật của mình.

Về sau anh Tanaka nói rằng họ cười vì Gomennasai nghe hơi yểu điệu; chị Yoshida bảo là vì cách diễn đạt đó nghe khá trẻ con.

*  *  *

Lẽ ra anh Lerner nên nói
Shitsuree-shimashita.
失礼しました。
(Nghĩa đen: Tôi đã thất lễ.)
thay vì Gomennasai. Gomennasai là một trong những cách diễn đạt thường dùng ở nhà, giữa các thành viên trong gia đình, trong khi đó Shitsuree-shimashita được sử dụng ở những tình huống xã hội. Trẻ con thường xin lỗi bố mẹ hoặc thầy cô bằng cách nói Gomennasai, nhưng Shitsurei-shimashita thường không được sử dụng giữa các thành viên trong gia đình. (Sumimasen cũng được dùng để xin lỗi. Nó ít trang trọng hơn Shitsurei-shimashita và được sử dụng ở cả trong nhà và ngoài xã hội, bởi người trưởng thành hoặc thanh thiếu niên; nếu một đứa bé nói Sumimasen với bố mẹ mình thì khá là kì cục.)

Ở ngoài xã hội, Gomennasai được sử dụng chủ yếu trong các tình huống mang tính thân mật. Hầu hết là trẻ em sử dụng; nếu giữa người lớn, thì nó được sử dụng trong hội thoại thân mật. Ví dụ, một cậu bé sẽ nói với một người lạ bị cậu vô tình giẫm vào chân khi đang trên tàu. Một người lớn tuổi có thể nói với một người trẻ hơn kể cả trong lúc làm việc, trừ khi là trường hợp bắt buộc phải nói lịch sự.

Sự khác biệt giữa cách nói lịch sự hay mang tính xã hội như Shitsuree-shimashita và cách nói thông thường như Gomennasai đang dần mờ đi. Một vài người đã bắt đầu sử dụng cách nói thông thường, kể cả cố ý hoặc không cố ý, trong các tình huống trang trọng hay mang tính xã hội. Tuy nhiên việc sử dụng đúng cách nói phù hợp trong từng tình huống vẫn rất quan trọng nếu bạn muốn trở thành một người nói tiếng Nhật giỏi.

Komatta na (Rắc rối rồi đây)

Nihongo Notes

  • Tác giả: Osamu Mizutani, Nobuko Mizutani
  • Chuyển ngữ: Yappa
  • Mục lục

Komatta na
こまったな
(Rắc rối rồi đây)

Cách đây mấy tuần có một chàng trai đến văn phòng gặp chị Yoshida vì công chuyện gấp. Khi anh Tanaka bảo chị ấy đã ra ngoài và phải vài giờ nữa mới quay lại, cậu ta nói:
Soo-desu-ka. Komatta-na.
そうですか。こまったな。
(Vậy à? Làm thế nào bây giờ? – Nghĩa đen: Vậy à? Rắc rối rồi đây.)
Anh Lerner từng nghe nói na chỉ được thêm vào trong câu hội thoại thông thường, vì thế anh nghĩ cậu ta hơi bất lịch sự với anh Tanaka. Nhưng có vẻ anh Tanaka không cảm thấy phật lòng gì mà còn đề nghị sẽ giúp cậu ấy liên lạc với chị Yoshida ngay khi có thể.

*  *  *

Có một số hậu tố thường được thêm vào cuối câu để thể hiện cảm xúc hoặc thái độ của người nói. Ne được dùng khi người nói mong chờ người nghe đồng ý với mình; yo được dùng khi người nói muốn nhấn mạnh câu nói của mình. Hậu tố na nếu được nói với giọng thấp như trong
  mu
Sa  i
    -na.
thể hiện cảm xúc của người nói trong một câu dạng độc thoại. Samui-na có nghĩa là “Lạnh nhỉ” và Iya-ni natchau-na nghĩa là “Ghét quá đi.” Na thường được sử dụng trong những câu có nội dung hướng đến bản thân người nói hơn là người nghe. Khi chàng trai nói Komatta-na, thì thực ra cậu ta đang nói với chính mình mặc dù anh Lerner và anh Tanaka đều có thể nghe được.

Anh Lerner nhận ra rằng người Nhật hay nói một mình giữa cuộc trò chuyện với tông giọng khác đi và dùng thể thông thường kiểu như Aa, soo-ka hay Aa, soo yuu wake-ka. Sau khi học được rằng na thường được dùng trong những câu như thế, anh để ý từ na này thường dùng chủ yếu bởi nam giới, nhưng thỉnh thoảng ngay cả phụ nữ cũng sử dụng. Anh Tanaka hay nói
A, moo jikan da-na.
(A, đã đến giờ rồi).
Và có lần anh đã nghe chị Yoshida nói
Iya-da-na, mata machigaeta.
(Chán quá. Mình lại nhầm rồi.)
khi sửa lỗi gõ nhầm của mình. (Phụ nữ hay dùng wa thay vì na.)

Tại sao người Nhật lại hay nói một mình giữa cuộc trò chuyện như vậy? Sensee nói điều đó là vì mục đích tốt. Nếu những nhận xét như Komatta-na hướng trực tiếp tới người nghe thì người đó có thể sẽ cảm thấy bị bắt buộc phải làm cái gì đó, nhưng nếu nó nhắm về bản thân người nói, người nghe có thể quyết định là giúp hoặc không. Vì thế các câu than phiền hay được nói theo kiểu này, mặc dù cũng có một vài người thích nói thẳng.

Nếu người chồng nói sau khi nếm thử trà là Nurui-na (Nó nguội mất rồi), thường thì người vợ sẽ tự đề nghị hâm nóng trà; nói Nurui-yo sẽ nghe như anh ta bắt vợ mình phải hâm nóng nó vậy.

Yasumu wake-niwa ikanai (Tôi không thể nghỉ được)

Nihongo Notes

  • Tác giả: Osamu Mizutani, Nobuko Mizutani
  • Chuyển ngữ: Yappa
  • Mục lục

Yasumu wake-niwa ikanai
やすむ わけには いかない
(Tôi không thể nghỉ được)

Anh Tanaka bị cảm và có vẻ rất mệt, vì vậy anh Lerner khuyên anh ấy nên xin về sớm, Anh Tanaka cảm ơn và nói:
Demo, soo yuu wake-nimo ikimasen-yo.
でも、そう いう わけにも いきませんよ。
(Nhưng tôi không thể làm vậy được đâu.)

Khi anh Lerner hỏi anh ấy vì sao lại không thể, anh ấy nói rằng anh ấy không thể về sớm khi mọi người đang làm việc vất vả được. Anh Lerner nghĩ ốm rồi còn ở lại thì cũng chẳng làm nên chuyện gì mà chỉ làm bệnh của anh ấy nặng hơn thôi, nhưng anh rất hứng thú với cách diễn đạt …wake-niwa ikanai. Sensee đã từng giải thích cho anh rằng …wake-niwa ikanai hay …wake-nimo ikanai có nghĩa là một người không thể làm việc gì đó bởi lý do xã hội. Giờ khi nghe anh Tanaka dùng nó, anh đã hiểu ý của Sensee.

*  *  *

Trong một vài cách nói để chỉ khả năng, …koto-ga dekinai(yasum)enai được dùng trong mọi trường hợp khi một ai đó không thể làm được việc gì; lý do có thể là do thể chất, xã hội hoặc cảm xúc, còn wake-niwa ikanai được dùng khi một người không thể làm được việc gì đó vì lí do xã hội. Một doanh nhân sẽ nói với vợ khi ông ta bị cảm như sau,
Yasumu wake-niwa ikanai.
やすむ わけには いかない。
(Tôi không thể nghỉ được.)
bởi ông ta cảm thấy ông ta không nên vắng mặt, mặc dù sự vắng mặt đó chẳng mấy ảnh hưởng tới đồng nghiệp của ông.

Nếu một người chồng nói với vợ mình không cần mua một bộ váy mới, cô ấy có thể nói
Demo, konna furui-no kite-iku wake-niwa ikanai-wa.
(Nhưng em không thể mặc đồ cũ như thế này được.)
Mặc dù thực tế vẫn có thể mặc nó, nhưng cảm xúc của cô ấy khiến cô ấy không thể mặc được.

…wake-niwa ikanai thường không dùng khi một thứ trên thực tế thì không làm được, nên sẽ rất kì cục nếu một người Nhật nghe thấy như thế này
Mada akanboo-da-kara aruku wake-niwa ikanai.
c
ó nghĩa là “Vì nó còn là một đứa bé nên chưa đi được.” Trong trường hợp này,
…arukenai.
sẽ thích hợp hơn.

Sukoshi tsumete-kudasaimasen-ka (Anh vui lòng ngồi dịch ra một chút có được không?)

Nihongo Notes

  • Tác giả: Osamu Mizutani, Nobuko Mizutani
  • Chuyển ngữ: Yappa
  • Mục lục

Sukoshi tsumete-kudasaimasen-ka
すこし つめてくださいませんか
(Anh vui lòng ngồi dịch ra một chút có được không?)

Tối hôm qua, anh Ernest Lerner đang đọc báo trên chuyến tàu về nhà. Có một khoảng trống giữa anh Lerner và người đàn ông ngồi cạnh. Rồi một người phụ nữ bước vào, đứng trước khoảng trống này, và nói
Sumimasen-ga.
Anh Lerner cảm giác cô ấy muốn ngồi xuống và cũng khá sẵn lòng ngồi dịch ra nhường chỗ cho cô. Nhưng anh tò mò muốn biết cách nói nào được dùng cho câu “Xin vui lòng ngồi dịch ra một chút,” nên anh chờ cô nói tiếp. Nhưng người phụ nữ không nói gì và di chuyển cánh tay như đang quét cái gì đó đi. Sau đó người đàn ông ngồi cạnh anh Lerner nhanh chóng dịch ra nhường chỗ cho người phụ nữ.

Sau này anh Tanaka cho biết cách nói bình thường trong những trường hợp thế này là
Sukoshi tsumete-kudasaimasen-ka.
すこし つめて くださいませんか。
(Nghĩa đen: Các anh có thể ngồi xích vào nhau một chút được không ạ?)
nhưng thông thường người ta không dùng nó mà chỉ thể hiện qua cử chỉ. Người phụ nữ không dùng cử chỉ để ra hiệu vì anh Lerner là người nước ngoài.

*  *  *

Ban đầu anh Lerner cho rằng người phụ nữ khá là bất lịch sự vì chỉ di chuyển cánh tay mà không nói gì. Nhưng khi nghĩ kỹ, anh nhận ra nhiều người Nhật cũng thường làm như vậy. Chẳng hạn, khi anh gặp những người làm việc trong cùng tòa nhà, một vài người chỉ cúi đầu tỏ ý “Xin chào” thay vì nói câu gì đó. Cũng như thế, khi một người đàn ông bước qua trước mặt người khác đang ngồi, anh ta thường mở bàn tay hướng lên trên, thay vì nói
Shitsuree-shimasu.
(Xin lỗi.)
Tương tự như khi mời trà, người Nhật thường chỉ nói Doozo và dùng cử chỉ tỏ ý “hãy dùng trà”. Cứ như thế, hầu hết các lời đề nghị đều có thể được thực hiện mà không dùng cách nói nào khác ngoài Sumimasen-ga hay Doozo.

Anh Lerner từng cho rằng người Nhật không sử dụng điệu bộ cử chỉ thường xuyên như người phương Tây, nhưng rồi anh nhận ra người Nhật thực sự dùng chúng rất nhiều. Điểm khác biệt là trong khi người phương Tây thường dùng cử chỉ để nhấn mạnh lời nói, thì người Nhật sử dụng chúng để thay thế cho lời nói.