Hajimemashite (Rất vui được gặp anh)

Nihongo Notes

  • Tác giả: Osamu Mizutani, Nobuko Mizutani
  • Chuyển ngữ: Yappa
  • Mục lục

Hajimemashite
はじめまして
(Rất vui được gặp anh)

Gần đây anh Lerner giới thiệu một người bạn của anh, chị Winters, cho anh Takada. Khi anh Lerner và chị Winters đến sảnh khách sạn mà họ hẹn gặp mặt, anh Takada đang ngồi trên ghế xô pha. Anh ấy đứng dậy khi nhìn thấy họ, và họ bước về phía anh ấy. Khi anh Lerner giới thiệu anh ấy với chị Winters, chị tiến lại gần anh ấy và nói.
Hajimemashite, Takada-san. Winters-desu.
はじめまして
(Rất vui được gặp anh Takada. Tôi tên là Winters.)
đúng như những gì anh Lerner dặn chị.
Nhưng có một điều kì lạ xảy ra. Anh Takada đột nhiên lùi lại khỏi chỗ chị và nói
Doozo yoroshiku.
どうぞ よろしく。
(Rất mong được giúp đỡ.)

Chị Winters không vui lắm với việc này. Sau đấy chị nói rằng chị thấy bị tổn thương bởi hành động lùi lại của anh Takada khi anh nhìn thấy chị. Chị đáng sợ lắm à? Hay chị trông không thân thiện? Không! Anh Lerner phủ nhận sự nghi ngờ của chị. Thực ra, chị là một phụ nữ trẻ đẹp, cao ráo và mạnh mẽ. Nhưng với tư cách là một người biết chút ít về người Nhật, anh nghĩ mình có thể hiểu được vì sao anh Takada lại lùi lại. Người Nhật thường giữ khoảng cách xa khi họ nói chuyện hơn so với người Mỹ, và khoảng cách này thậm chí còn lớn hơn nếu hai người đang nói chuyện một cách lịch sự. Với hầu hết người Nhật, sẽ khá là lúc túng nếu đứng quá gần với ai đó mà họ cần nói chuyện một cách lịch sự. Anh nhấn mạnh rằng, anh Takada lùi lại không phải vì anh ấy sợ chị, hay vì anh ấy muốn làm tổn thương chị, mà bởi anh ấy muốn đúng mực một cách hoàn hảo.

* * *

Khi anh Lerner hỏi có phải anh ấy nghĩ đúng hay không, Sensee nói là đúng. Và Sensee còn bổ sung là có thể khoảng cách giữa người nghe và người nói sẽ khác nhau phụ thuộc vào việc hai người họ cúi chào hay bắt tay nhau. Khi hai người chuẩn bị cúi chào nhau, họ phải đứng cách nhau tương đối xa; nếu họ sắp bắt tay, họ sẽ phải đứng gần nhau hơn. Và trong trường hợp cúi chào cũng vậy, khoảng cách có thể thay đổi tùy theo góc cúi; cúi càng sâu thì khoảng cách càng xa.

Các giáo viên dạy tiếng Nhật cho người nước ngoài thường thấy ngại khi học sinh của họ đứng gần hơn mong đợi. Điều này đặc biệt đúng khi giáo viên và học sinh có giới tính khác nhau. Tương tự như vậy, bạn có lẽ từng gặp tình huống khó xử khi bắt tay với một người Nhật vì anh ta đứng cách bạn quá xa.

Trong hội thoại, tất cả các biểu hiện phải được nói không chỉ đúng ngữ pháp hay đúng phát âm, mà còn phải có thái độ thích hợp. “Thái độ” này không chỉ dừng lại ở điệu bộ cơ thể mà còn là cả khoảng cách giữa người nói và người nghe.

O-ari-desu-ka (Bạn có không?)

Nihongo Notes

  • Tác giả: Osamu Mizutani, Nobuko Mizutani
  • Chuyển ngữ: Yappa
  • Mục lục

O-ari-desu-ka
おありですか
(Bạn có không?)

Việc phát âm tiếng Nhật không quá khó đối với anh Lerner, nhưng việc nghe hiểu đôi khi khá khó khăn. Thứ sáu vừa rồi anh lại có một phen xấu hổ. Anh Okada đến và hỏi anh tối đó có rảnh không. Anh Lerner nghĩ rằng anh ấy đã hỏi
O-shigoto-ga owari-desu-ka.
おしごとが おわりですか。
(Anh sẽ xong việc chứ? – Nghĩa đen: Anh xong việc chưa?)
nên anh trả lời là rồi. Song thật bất ngờ anh Okada nói rằng anh ấy xin lỗi và đề nghị họ đi vào ngày khác. Khi anh Lerner bảo anh thích tối nay hơn, thì anh Okada có vẻ bối rối.

Thực ra lúc đó Okada đã nói
O-shigoto-ga o-ari-desu-ka.
おしごとが おありですか。
(Anh có bận việc không?)
và anh Lerner đã trả lời là có.

*  *  *

Hai cách diễn đạt o-ari-desu-ka (bạn có không?) và owari-desu-ka (đã xong chưa?) nghe có vẻ giống nhau vì âm “w” trong owari được phát âm khá nhẹ. Âm “w” trong tiếng Nhật được phát âm nhẹ và không tròn môi lắm. Vì thế người nước ngoài thường gặp khó khăn khi phân biệt wakai (trẻ) với akai (đỏ) và warawaremashita (tôi bị người ta cười) với arawaremashita (đã xuất hiện).

Âm “r” cũng khó nghe, và rất dễ gây hiểu nhầm do lẫn ri với “i”; karimashita (tôi đã mượn nó) nghe giống như kaimashita (tôi đã mua nó).

Không chỉ riêng âm “w” và “r”, mà hầu hết các phụ âm trong tiếng Nhật thường được phát âm nhẹ hơn so với tiếng Anh. Tức là phát âm phụ âm nhẹ sẽ khiến tiếng Nhật của bạn nghe hay hơn. (Và quan trọng là khi phụ âm được phát âm nhẹ, thì nguyên âm được phát âm rõ ràng và với độ dài gần như bằng nhau)

Để thấy phụ âm trong tiếng Nhật được phát âm nhẹ như thế nào, bạn có thể quan sát các cô bán hàng tại cửa hàng bách hóa nói chuyện với khách hàng. Khi họ nói
Maido arigatoo-gozaimasu.
(Rất cảm ơn quý khách vì đã ghé qua.),
thì âm “m” trong maidogozaimasu được phát âm rất nhẹ. Đặc biệt khi họ phát âm “m” trong gozaimasu, đôi khi môi của họ không hề chạm nhau; thực tế gozaimasu của họ thường nghe như đang nói …gozaiasu.

 

Ato-de kekkoo-desu-kara (Vì làm sau cũng được)

Nihongo Notes

  • Tác giả: Osamu Mizutani, Nobuko Mizutani
  • Chuyển ngữ: Yappa
  • Mục lục

Ato-de kekkoo-desu-kara
あとで けっこうですから
(Vì làm sau cũng được)

Mấy ngày trước chị Yoshida có nhờ anh Lerner giúp chút việc. Chị bảo sẽ không mất nhiều thời gian và nói thêm
Ato-de kekkoo-desu-kara.
あとで けっこうですから。
(Nghĩa đen: Vì làm sau cũng được.)
Anh Lerner hiểu rằng chị nói thêm vậy vì nghĩ là không muốn làm phiền anh, nhưng anh không rõ tại sao chị lại kết thúc câu bằng kara.

Việc này khiến anh nhớ Sensei đã nói với anh rằng người Nhật thường xuyên dùng kara khi không có ý là “bởi vì”. Họ sẽ nói như thế này:
Ocha-ga hairimashita-kara doozo.
(Trà đã pha xong. Xin mời.)
Nếu bạn dịch thành “Bởi vì trà đã pha xong, nên xin mời,” thì nghe khá là lạ. Anh cũng từng nghe anh Takada nói với chị Yoshida
Ashita kaesu-kara sen-en kashite.
(Nghĩa đen: Vì mai tôi sẽ trả, nên cho tôi mượn 1000 yên nhé.)

*  *  *

Kara được dùng để đưa ra lí do như là “bởi vì” hay “vì”, nhưng lí do được biểu thị trong cách nói với kara không nhất thiết phải liên quan tới một sự thật. Nói cách khác, kara trong Kane-ga nai-kara kaenai (Vì tôi không có tiền nên tôi không mua được) liên quan tới một lý do thật. Lý do không mua được cái gì đó là sự thật rằng người nói không có đủ tiền. Nhưng kara cũng dùng để biểu thị lí do vì sao người nói muốn làm gì đó.
Ato-de kekkoo-desu-kara, tetsudatte-kudasai.
có thể được diễn giải thành “Tôi biết anh đang bận và tôi cảm thấy tôi không nên làm phiền anh, vì thế tôi nói anh không cần phải làm ngay mà anh có thể làm sau. BỞI VÌ tôi đã cân nhắc là tôi có thể nhờ anh giúp tôi.” Tóm lại, Ato-de kekkoo-desu-kara được dùng để biện minh cho việc người nói đưa ra yêu cầu chứ không phải là giải thích vì sao người nói muốn ai đó giúp đỡ mình. Tương tự như vậy, trong câu Ashita kaesu-kara sen-en kashite của anh Takada, Ashita kaesu-kara được nói để biện minh cho yêu cầu của anh ấy.

Tránh sử dụng kara khi ta không nên công khai biện minh cho mình. Ví dụ, khi bị hỏi vì sao bạn đến trễ, sẽ lịch sự hơn nếu nói
Densha-ga okuremashita-node.
(Vì xe điện đến trễ.)

Node được dùng để đưa ra lí do một cách khách quan và cũng được dùng trong các trường hợp lịch sự. Nếu bạn nói
Densha-ga okuremashita-kara.
thì sẽ tỏ ý là bạn đang yêu cầu được miễn chỉ trích.

Chotto yuubinkyoku e-itte kimasu (Tôi sẽ đến bưu điện)

Nihongo Notes

  • Tác giả: Osamu Mizutani, Nobuko Mizutani
  • Chuyển ngữ: Yappa
  • Mục lục

Chotto yuubinkyoku e-itte kimasu
ちょっと 郵便局へ いってきます
(Tôi sẽ đến bưu điện)

Anh Lerner hỏi Sensee anh có thể làm thế nào để tiếng Nhật của anh nghe tự nhiên hơn. Sensee gợi ý rằng anh nên dùng hai động từ cùng nhau, ví dụ như nói itte-kimasu (nghĩa đen: tôi sẽ đi rồi quay lại) thay vì ikimasu, hoặc yonde-mimasu (nghĩa đen: tôi sẽ đọc và xem) thay vì yomimasu.

Vậy nên anh bắt đầu để ý hơn đến cách nói này trong các cuộc hội thoại của mọi người xung quanh anh. Chiều hôm qua, anh nghe thấy chị Yoshida nói
Chotto yuubinkyoku-e itte-kimasu-kedo…
ちょっと 郵便局へ いってきますけど……
(Tôi sẽ đến bưu điện. – Nghĩa đen: Tôi sẽ đến bưu điện một lúc rồi quay lại, nhưng…)

Anh đã từng học rằng itte-kimasu dùng khi người nói muốn nhấn mạnh ý định sẽ quay lại, nhưng bản thân anh thì chưa dùng nó bao giờ và trước nay cũng chưa từng chú ý đến nó nhiều.

Sau đó anh Takada nói với chị Yoshida
Ja, kono tegami-mo dashite-kite-moraeru?
(Vậy thì chị có thể gửi giúp tôi bức thư này được không? – Nghĩa đen: Vậy tôi có thể nhận được sự giúp đỡ của chị về việc gửi luôn bức thư này rồi quay lại không?)
Anh Lerner ngạc nhiên khi thấy anh Takada dùng tới ba, mà không phải hai động từ cùng nhau – dasu (gửi), kuru (đến) và morau (nhận); anh cảm thấy nếu anh học cách diễn đạt này thì anh sẽ còn cả một chặng đường rất dài.

*  *  *

Dùng hai động từ với nhau rất phổ biến trong hội thoại hàng ngày, và có thể làm như vậy sẽ giúp tiếng Nhật của bạn trở nên biểu cảm hơn. Những cách nói như itte-kimasu được tạo ra bởi hai động từ, iku sử dụng tại đây như là động từ chính còn kuru là trợ động từ, tuy nhiên bất cứ động từ nào cũng có thể được dùng làm động từ chính. Trong khi động từ chính được dùng để biểu thị hành động, trợ động từ thể hiện ý định hoặc thái độ tâm lí của người nói hoặc người làm. Ví dụ, khi ai đó nói
Yonde-mimasu.
(Tôi sẽ đọc và xem nó thế nào.)
yomu nhắc đến hành động trong khi miru được dùng để chỉ sự hứng thú của người nói với kết quả của hành động. Tương tự như vậy khi ai đó nói
Osoku natte-shimatta.
(Tôi đã bị muộn.)
việc sử dụng shimau ngụ ý rằng người nói tiếc nuối với việc anh ta đã làm.

Những động từ như morau, itadaku (nhận), ageru (cho), kureru (cho tôi) và kudasaru (cho tôi) được thêm vào sau những động từ khác để thể hiện việc người nói cho hoặc nhận sự giúp đỡ đối với ai đó. Vì thế bạn sẽ thỉnh thoảng nghe thấy ba động từ cùng nhau như trong dashite-kite-morau mà anh Takada đã dùng, hay như trong
Yonde-mite-itadakemasuka.
(Bạn có thể đọc cái này và xem thế nào không? – Nghĩa đen: Liệu tôi có thể được nhận sự giúp đỡ về việc bạn đọc và xem cái này không?)

 

Shikashi… (Nhưng…)

Nihongo Notes

  • Tác giả: Osamu Mizutani, Nobuko Mizutani
  • Chuyển ngữ: Yappa
  • Mục lục

Shikashi…
しかし…
(Nhưng…)

Mấy hôm trước anh Okada có đến văn phòng gặp anh Lerner. Sau khi chào hỏi bằng câu Senjitsu-wa doomo (nghĩa đen: hôm trước đã thất lễ), anh Okada ngồi xuống và nói:
Shikashi samuku narimashita-nee.
しかし さむく なりましたねえ。
(Mà trời cũng lạnh dần rồi nhỉ?)
Anh Lerner đồng ý nhưng anh không hiểu vì sao anh Okada lại bắt đầu câu bằng shikashi. Họ chưa hề nói gì trái ngược với sự thật là trời đang lạnh dần.

*  *  *

Shikashi dường như được dùng theo hai cách; một là để đưa ra ý khiến đối lập, như trong:
A: Fukeeki-desu-nee. (Công việc kinh doanh tệ quá.)
B: Ee, shikashi otaku-wa ii-deshoo. (Ừ, nhưng mà công ty anh chắc sẽ ổn thôi.)

Cách dùng khác là để thể hiện người nói muốn ngừng chủ đề của cuộc trò chuyện và bắt đầu một chủ đề mới, như anh Okada đã làm trOng trường hợp trên. Khi ai đó dùng shikashi theo cách này, thì bắt buộc phải có một khoảng thời gian dừng lại, kể cả khi nó ngắn. Vì khoảng thời gian dừng đó có thể rất ngắn, nên đôi khi người nước ngoài cảm giác shikashi đó đột nhiên được dùng.

Khi giao tiếp thông thường, dakedo được dùng thay thế cho shikashi. Thỉnh thoảng sore-ni shite-mo (nghĩa đen: mặc dù là như thế) được thêm vào sau shikashi hoặc dakedo khi người ta muốn dùng nó để bắt đầu một chủ đề mới.

Mặc dù sẽ dễ hiểu hơn nếu ta nghĩ shikashi hoặc dakedo được dùng theo hai cách khác nhau, thực ra hai cách được đề cập ở trên có thể coi là một. Trong cách dùng đầu, shikashi được sử dụng để tỏ ý phủ định của người nói với câu trước đó, trong khi cách dùng thứ hai được sử dụng để thể hiện ý phủ định của người nói với chủ đề trước đó và chuyển sang cái mới. Thực tế người Nhật thường không thấy có gì khác nhau giữa hai cách dùng này.

Trong giao tiếp hàng ngày bạn sẽ nghe shikashi được sử dụng khá thường xuyên như trong cách nói sau:
(A và B gặp nhau trên đường.)
A: Ocha-demo nomimasen-ka. (Sao không đi uống trà nhỉ?)
B: Ii-desu-ne. Asoko-wa doo-desu-ka. (Hay đấy, đi uống thôi. Quán cà phê đó thế nào?)
A: Ee, ja asoko-ni shimashoo. (Ừ, ra đó đi.)
(Cả hai bắt đầu đi về phía quán cà phê.)
A: Shikashi Tanaka-san-mo eraku narimashita-nee. (Mà Tanaka cũng nổi lên rồi đấy nhỉ?)
B: Soo-desu-ne. (Ừ, đúng rồi.)